Bệnh bạch hầu: Biến chứng khó lường và cách phòng ngừa hiệu quả

Bạch hầu là căn bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, có thể làm bệnh nhân tử vong trong vòng 6 – 10 ngày. Đây là bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng với tỷ lệ tử vong lên đến 20%.

Để người dân có thêm thông tin về cách phòng chống, biểu hiện của bệnh bạch hầu, các biến chứng có thể xuất hiện, cũng như thông tin về những căn bệnh có thể phòng ngừa bằng vắcxin, Sức khỏe Quảng Ninh có cuộc phỏng vấn Bác sĩ Trương Quang Long (Khoa Kiểm soát bệnh truyền nhiễm, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật).

PV: Thưa bác sĩ, bác sĩ có thể cho biết Bệnh bạch hầu là gì?

Bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc cấp tính do vi khuẩn bạch hầu sinh độc tố (Corynebacterium diphtheriae) gây nên, là bệnh truyền nhiễm cấp tính thuộc nhóm B. Bệnh bạch hầu lưu hành trên toàn cầu, hay gặp là các ca bệnh tản phát hoặc các vụ dịch nhỏ, chủ yếu ở nhóm dưới 15 tuổi, người chưa có miễn dịch, không được tiêm vắc xin. Tuy nhiên hiện nay đã ghi nhận số mắc tăng ở nhóm trẻ lớn và người lớn tại những vùng không được tiêm chủng hoặc tỷ lệ tiêm chủng thấp.

PV: Bệnh bạch hầu có những dấu hiệu, triệu chứng nhận biết như thế nào?

          Thời kỳ ủ bệnh thường từ 2 đến 5 ngày. Tùy vào vị trí vi khuẩn gây bệnh sẽ có những biểu hiện khác nhau. 

  • Bệnh bạch hầu mũi trước: Bệnh nhân sổ mũi, chảy ra chất mủ nhầy đôi khi có máu, có màng trắng ở vách ngăn mũi. Thể bệnh thường nhẹ do độc tố vi khuẩn ít thâm nhập vào máu.
  • Bệnh bạch hầu họng và amidan: Bệnh nhân mệt mỏi, đau cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ. Sau 2, 3 ngày xuất hiện một đám hoại tử tạo thành lớp giả mạc màu trắng xanh, dai và dính chắc vào amiđan, hoặc có thể lan rộng bao phủ cả vùng hầu họng. Trong một số trường hợp, bệnh nhân có thể sưng nề vùng dưới hàm và sưng các hạch vùng cổ làm cổ bạnh ra như cổ bò. Những trường hợp nhiễm độc nặng bệnh nhân sẽ phờ phạc, xanh tái, mạch nhanh, đờ đẫn, hôn mê. Nếu không được điều trị tích cực, những bệnh nhân này có thể tử vong trong vòng 6 đến 10 ngày.
  • Bạch hầu thanh quản: Là thể bệnh tiến triển nhanh và nguy hiểm. Bệnh nhân có dấu hiệu sốt nhẹ, khàn tiếng, ho, các giả mạc tại thanh quản hoặc từ hầu họng lan xuống. Nếu không được điều trị kịp thời, các giả mạc có thể gây tắc đường thở, làm bệnh nhân suy hô hấp và tử vong nhanh chóng.
  • Ngoài những vị trí kể trên, vi khuẩn còn có thể gây bệnh ở một số vị trí khác nhưng những trường hợp này rất hiếm và có tiến triển bệnh nhẹ. 

PV: Bệnh bạch hầu lây lan như thế nào và các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh bạch hầu?

Bệnh lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc trực tiếp với người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn bạch hầu (hít phải các chất tiết đường hô hấp của người bệnh bắn ra khi ho, hắt hơi…) Bệnh còn có thể lây bằng việc tiếp xúc với đồ vật có dính chất bài tiết từ người bệnh. 

Người bệnh và người lành mang trùng vừa là ổ chứa, vừa là nguồn truyền bệnh, trong đó người lành mang trùng đóng vai trò duy trì nguồn truyền nhiễm ở cộng đồng. Thời kỳ lây truyền thường bắt đầu từ khi khởi phát và kéo dài khoảng 2 tuần, đôi khi lên tới 4 tuần. Trong một số trường hợp đã ghi nhận người mang vi khuẩn mãn tính trên 6 tháng. 

Mọi lứa tuổi đều có thể bị mắc bệnh bạch hầu nếu không có miễn dịch đặc hiệu hoặc nồng độ kháng thể ở dưới mức bảo vệ. Tuy nhiên, vẫn có một số nhóm đối tượng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những người khác, như:

  • Trẻ em và người lớn chưa được tiêm vắc xin phòng bệnh.
  • Người đi du lịch đến vùng dịch tễ.
  • Những người sống trong điều kiện đông đúc, mất vệ sinh.
  • Trẻ em dưới 15 tuổi chưa có miễn dịch.
  • Trẻ sơ sinh có miễn dịch thụ động từ mẹ truyền sang con nên không dễ mắc bệnh. Tuy nhiên, miễn dịch thụ động sẽ mất đi khi trẻ 6 tháng – 1 tuổi. Nếu không được tiêm vắc xin, trẻ có nguy cơ mắc bệnh cao.
  • Những người suy giảm miễn dịch rất dễ mắc bệnh và có tỷ lệ tái nhiễm bệnh từ 2% – 5%.
  • Sau tiêm vắc xin liều cơ bản miễn dịch có thể kéo dài được vài năm song thường giảm dần theo thời gian nếu không được tiêm nhắc lại.

PV: Thưa bác sĩ, bệnh bạch hầu nguy hiểm như nào nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời?    

Bạch hầu rất nguy hiểm vì vi khuẩn gây ra độc tố cực mạnh. Chất độc giết chết các tế bào trong miệng, mũi và cổ họng. Các tế bào chết nhanh chóng tích tụ và tạo thành một màng bám có thể bám vào cổ họng và dẫn đến tử vong do nghẹt thở. 

Bệnh đã có vắc xin và kháng sinh đặc hiệu để phòng và điều trị, tuy nhiên vắc xin giải độc tố bạch hầu chỉ tạo ra miễn dịch kháng độc tố có tác dụng bảo vệ cơ thể không bị mắc bệnh nhưng không ngăn ngừa được sự nhiễm vi khuẩn tại chỗ ở hầu họng, do vậy không làm giảm được tình trạng người lành mang trùng sau khi tiêm vắc xin.

Ngoài ra nếu không được phát hiện sớm và điều trị tích cực, bệnh nhân bạch hầu có thể xuất hiện nhiều biến chứng nguy hiểm do ngoại độc tố của vi khuẩn. Biến chứng thường gặp nhất ở bệnh là viêm cơ tim và viêm dây thần kinh. Biến chứng viêm cơ tim có thể xảy ra ở giai đoạn toàn phát hoặc có thể chậm vài tuần sau khi người bệnh khỏi. Khi viêm cơ tim xuất hiện sớm trong những ngày đầu của bệnh, tỷ lệ tử vong thường rất cao. Biến chứng viêm dây thần kinh thường ảnh hưởng đến dây thần kinh vận động và sẽ hồi phục hoàn toàn nếu bệnh nhân không tử vong vì những biến chứng khác. 

Bệnh có thể xảy ra trong 3 tháng cuối thai kỳ hoặc giai đoạn sau sinh. Tỷ lệ tử vong của bệnh đối với sản phụ là khoảng 50%, ⅓ trường hợp sống sót có thể bị sảy thai hoặc sinh non. Điều trị sớm bằng huyết thanh kháng bạch hầu có thể cải thiện tỷ lệ sống sót và mang thai, nhưng biến chứng vẫn cần được điều trị kéo dài. Ở trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh nếu mắc bệnh có thể gặp các biến chứng như viêm kết mạc mắt, viêm tai giữa hoặc suy hô hấp do tắc nghẽn đường thở.

Tỷ lệ tử vong của bệnh thường rơi vào khoảng 5% – 10% và có thể tăng cao lên đến 20% ở trẻ dưới 5 tuổi.

PV: Bệnh bạch hầu có thể chữa trị được không và người dân cần làm gì để phòng tránh bệnh bạch hầu?

Hiện nay, bệnh bạch hầu đã có thể điều trị được bằng thuốc. Bệnh nên được điều trị tại các cơ sở y tế có đội ngũ bác sĩ giàu kinh nghiệm và trang bị máy móc tiên tiến, hiện đại. Tuy nhiên trong giai đoạn tiến triển, bệnh vẫn có thể gây hại cho tim, thận và hệ thần kinh của người bệnh. Ngay cả khi điều trị, bệnh bạch hầu vẫn có thể gây tử vong với tỷ lệ 3% những người mắc bệnh tử vong, tỷ lệ này còn cao hơn ở trẻ em dưới 15 tuổi. Vì vậy, khi có bất cứ triệu chứng nào của bệnh bạch hầu, người bệnh cần đến ngay các cơ sở y tế để được chẩn đoán chính xác tình trạng bệnh và điều trị kịp thời.

Để dự phòng mắc bệnh bạch hầu, theo khuyến cáo của Bộ Y tế, biện pháp đặc hiệu nhất đó là tiêm vắc xin phòng bệnh. Hiện nay, vắc xin phòng bệnh bạch hầu là vắc xin phối hợp trong đó có thành phần kháng nguyên bạch hầu. Trong Chương trình Tiêm chủng quốc gia có những loại vắc xin như:

  • Vắc xin 5 trong 1 phòng bệnh bạch hầu – ho gà – uốn ván – Hib – viêm gan B (DPT-VGB-Hib): tiêm khi trẻ 2, 3, 4 tháng tuổi
  • Vắc xin bạch hầu – ho gà – uốn ván: tiêm khi trẻ 16-18 tháng tuổi
  • Vắc vắc xin bạch hầu – uốn ván cho nhóm đối tượng người lớn có nguy cơ cao, chỉ được sử dụng trong chiến dịch khi có dịch bệnh chứ không tiêm phổ cập

Ngoài ra, để phòng bệnh, người dân cần thực hiện tốt các biện pháp sau:

  • Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày; hạn chế tiếp xúc với người mắc/nghi ngờ mắc bệnh.
  • Thực hiện tốt vệ sinh nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.
  • Đảm bảo vệ sinh ăn uống, ăn chín, uống sôi, bát đũa sạch sẽ
  • Khi có dấu hiệu mắc bệnh/nghi ngờ mắc bệnh phải thông báo ngay cho cơ quan y tế để được cách ly, khám, xét nghiệm và điều trị kịp thời.
  • Người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc kháng sinh dự phòng và tiêm vắc xin phòng bệnh theo chỉ định và yêu cầu của cơ quan y tế.

Xin cảm ơn bác sĩ!

Quỳnh Trang (CDC Quảng Ninh)