Phụ nữ mang thai bị mắc bệnh thuỷ đậu nguy cơ biến chứng vô cùng nghiêm trọng có thể là viêm phổi, tổn thương hệ thần kinh thậm chí nguy hiểm hơn là gây tử vong mẹ hoặc có thể dẫn đến sảy thai, dị tật thai tùy thời điểm nhiễm bệnh.
Bệnh thuỷ đậu, hay còn gọi là bệnh phỏng rạ (ở miền Bắc), bệnh trái rạ (ở miền Nam), là bệnh lây qua đường hô hấp hoặc do tiếp xúc trực tiếp với virus Varicella zoster. Biểu hiện rõ rệt nhất của bệnh lý này là những mụn nước có kích thước như hạt đậu nổi khắp cơ thể, kể cả ở niêm mạc mắt và miệng. Đây là một căn bệnh rất dễ lây lan qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc trực tiếp với người bệnh.
Rủi ro biến chứng nguy hiểm khi mắc thủy đậu lúc mang thai
Theo Bác sĩ Phạm Thị Ngọc Anh, Khoa Phòng chống bệnh truyền nhiễm, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Quảng Ninh cho biết, phụ nữ đang mang thai bị thuỷ đậu có thể phải đối mặt với những rủi ro nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khoẻ. Virus varicella gây bệnh thủy đậu làm tăng tỷ lệ mắc viêm phổi ở thai phụ lên 10 – 20%. Phụ nữ mang thai nhiễm bệnh thủy đậu là đối tượng tử vong nhiều nhất trong số những người lớn mắc phải căn bệnh này, đặc biệt là khi thai phụ đã bị viêm phổi do virus varicella.

Phụ nữ đang mang thai bị thuỷ đậu có thể phải đối mặt với những rủi ro nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khoẻ của mẹ và bé
Ở những sản phụ nhiễm thủy đậu lần đầu khi mang thai, sự tác động của bệnh đến thai nhi tùy thuộc vào từng giai đoạn thai kỳ:
– Hội chứng thủy đậu bẩm sinh: Người mẹ mắc thủy đậu trong thời kỳ đầu mang thai (8 – 20 tuần) thì thai nhi có nguy cơ mắc hội chứng thủy đậu bẩm sinh. Đặc trưng của hội chứng này là sẹo trên da, bất thường về thần kinh (tật đầu nhỏ, não úng thủy, chậm phát triển tâm thần,…), bất thường về chi thể (nhược chi, chi ngắn teo), bất thường ở mắt (đục thủy tinh thể, teo dây thần kinh thị giác, rung giật nhãn cầu, viêm màng bồ đào,…), bất thường ở đường tiêu hóa (trào ngược dạ dày, tắc ruột) hoặc cân nặng khi sinh thấp. Trẻ mắc hội chứng thủy đậu bẩm sinh có tỷ lệ tử vong lên tới 30% trong vài tháng đầu đời và có 15% nguy cơ phát triển Zona trong vòng 4 năm đầu đời; Ở 3 tháng tiếp theo, đặc biệt tuần thứ 13 đến tuần 20, tỷ lệ bào thai bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh tăng lên 2%. Kể từ tuần lễ thứ 20 trở đi, bệnh thủy đậu thai kỳ hầu như không gây ảnh hưởng đến em bé.
– Sinh non, sảy thai tự nhiên: Khi mắc thủy đậu ở 3 tháng đầu thai kỳ, virus có thể gây sảy thai;
– Nhiễm thủy đậu lan tỏa, thủy đậu sơ sinh: Nếu bà bầu mắc bệnh khoảng 5 ngày trước khi chuyển dạ cho đến 2 ngày sau sinh, trẻ sơ sinh có nhiều khả năng nhiễm bệnh thủy đậu lan tỏa hoặc thủy đậu sơ sinh do mẹ chưa đủ thời gian tạo kháng thể truyền cho thai nhi trước sinh. Trong trường hợp này, bé có nguy cơ tử vong khá cao, lên đến khoảng 25 – 30% các ca trẻ sơ sinh bị thủy đậu sơ sinh từ mẹ.
Chẩn đoán bệnh thủy đậu khi mang thai
Khi nghi ngờ mắc bệnh thủy đậu, bà mẹ mang thai có thể làm các xét nghiệm chẩn đoán lâm sàng, xét nghiệm PCR dịch mụn nước hoặc thực hiện xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang. Chẩn đoán viêm phổi do Varicella Zoster Virus có thể được chỉ định khi thai phụ có tổn thương da điển hình của bệnh thủy đậu, tiếp xúc với nguồn lây bệnh và có các triệu chứng hô hấp.
Hội chứng thủy đậu bẩm sinh cũng có thể chẩn đoán sớm bằng phương pháp sử dụng xét nghiệm PCR máu hoặc nước ối thai nhi tìm DNA của VZV. Xét nghiệm PCR có độ nhạy cao, được thực hiện trong tuần 17 – 21 của thai kỳ;

Siêu âm hình thái thai nhi được thực hiện để đánh giá các bất thường của thai nhi.
Siêu âm phát hiện các bất thường của thai nhi. Siêu âm hình thái thai nhi được thực hiện 5 tuần sau khi người mẹ bị nhiễm thủy đậu để đánh giá các bất thường của thai nhi. Chỉ định siêu âm lặp lại từ 22 – 24 tuần. Nếu siêu âm lặp lại cho kết quả bình thường thì nguy cơ mắc hội chứng thủy đậu bẩm sinh là rất thấp. Nếu siêu âm cho bằng chứng của bệnh lý thì người mẹ cần được tư vấn về khả năng mắc bệnh của thai nhi;
Sau khi sinh, có thể chẩn đoán hội chứng thủy đậu bẩm sinh dựa vào tiền sử nhiễm thủy đậu của người mẹ (trong 3 tháng đầu hoặc 3 tháng giữa thai kỳ), tình trạng bất thường của trẻ phù hợp với hội chứng thủy đậu bẩm sinh, xét nghiệm PCR tìm DNA của virus thủy đậu ở trẻ sơ sinh, có sự hiện diện của kháng thể IgM đặc hiệu VZV trong máu cuống rốn, trẻ mắc bệnh Zona trong giai đoạn sớm,…
Làm thế nào để hạn chế mắc thủy đậu khi mang thai?
Theo khuyến cáo từ Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Quảng Ninh, để hạn chế nguy cơ mắc bệnh thủy đậu, phụ nữ khi mang thai nên tránh tiếp xúc với người bệnh thủy đậu, đồng thời giữ vệ sinh môi trường và vệ sinh thân thể thật tốt. Ngoài ra, hãy cẩn thận để tránh tiếp xúc với bất cứ ai mà bị bệnh zona, đây là tình trạng bệnh lý đến những người đã bị thuỷ đậu. Với bệnh zona thì vi rút thuỷ đậu được kích hoạt lại, gây phát ban da đau đớn và ngứa ngáy. Mặc dù bạn có thể không bị mắc bệnh zona từ những người mắc bệnh này, nhưng bạn lại có thể dễ dàng bị nhiễm virus thuỷ đậu.

Phụ nữ nên tiêm chủng phòng thuỷ đậu khi còn bé hoặc ít nhất 3 tháng trước khi mang thai.
Biện pháp phòng ngừa tốt nguy cơ biến chứng thủy đậu ở phụ nữ có thai và hội chứng thủy đậu bẩm sinh là tiêm vắc-xin. Phụ nữ nên tiêm chủng phòng thuỷ đậu khi còn bé hoặc ít nhất 3 tháng trước khi mang thai. 80 – 90% trường hợp đã chủng ngừa vắc-xin thủy đậu có khả năng phòng bệnh tuyệt đối. 10% trường hợp còn lại có thể bị thủy đậu sau tiêm chủng nhưng thường chỉ bị nhẹ với ít nốt mụn nước (dưới 50 nốt) và thường không bị biến chứng.
Khi không may mắc bệnh, bà mẹ mang thai cần theo dõi cẩn thận và điều trị kịp thời, tránh nguy cơ biến chứng. Nguy cơ mắc bệnh nghiêm trọng của bé cũng có thể được giảm đáng kể nếu bé được tiêm globulin miễn dịch varicella zoster (VZIG), một sản phẩm máu có chứa kháng thể thuỷ đậu và em bé sẽ được tiêm ngay sau khi sinh ra trong vòng hai ngày sau sinh.
Quỳnh Trang (CDC QN)