Quai bị có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm nếu không được điều trị đúng cách

Quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính khá phổ biến, có thể tạo thành dịch trong trẻ em và thanh thiếu niên với đặc điểm viêm tuyến nước bọt mang tai không hóa mủ. Bệnh tuy lành tính nhưng nếu được điều trị kịp thời, đúng cách cũng có khả năng gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng sống của người bệnh. 

Theo thống kê, quai bị là bệnh phân bố rộng trên toàn cầu, tỷ lệ mắc quai bị thường cao ở những khu vực đông dân cư, nơi có khí hậu thường xuyên mát hoặc lạnh, khu vực có đời sống chưa được cao…Tại Việt Nam, quai bị phân bố khắp cả nước. Bệnh thường gặp vào các mùa trong năm, tuy nhiên bệnh dễ bùng phát mạnh và thường xuyên hơn vào các tháng thu-đông, vùng có khí hậu mát mẻ và khô hanh. Tỷ lệ mắc bệnh dao động từ 10-40 trường hợp trên 100.000 dân, bệnh thường tập trung nhiều ở các tỉnh miền Bắc, Tây Nguyên.

Tỷ lệ tử vong do nhiễm quai bị thường rất thấp, không vượt quá 1/100.000 dân, tuy nhiên không ít trường hợp có biến chứng nặng như viêm não, viêm màng não hoặc viêm nhiều tuyến.

Nguyên nhân mắc quai bị là do Mumps virus, thuộc giống Rubulavirus gây nên. Virus lây truyền qua đường hô hấp, ăn uống và giọt bắn khi bệnh nhân ho, hắt hơi, giao tiếp.

Quai bị do Mumps virus gây nên

Mumps virus phát triển cao trong huyết thanh khoảng 12-15 ngày sau khi nhiễm và lan ra các cơ quan khác. Thời gian lây là từ 6 ngày trước khi có cơn toàn phát sưng tuyến mang tai cho đến 2 tuần sau khi có các triệu chứng bệnh lý.

Bác sĩ Chuyên khoa I Đỗ Thị Bích Phượng, Khoa Các bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Sản Nhi Quảng Ninh cho biết:“Người bệnh, đặc biệt là những bạn nhỏ khi mắc quai bị thường có triệu chứng điển hình như là sốt cao từ 38-40 độ. Có sưng đau góc hàm một hoặc là hai bên. Đôi khi xảy ra biến chứng các bạn ấy có thể đau bụng nhiều, nôn, sưng đau tinh hoàn, hoặc là những triệu chứng như co giật, đau đầu”.

Triệu chứng của quai bị

Quai bị dễ lây lan ở những nơi tập trung đông người, nhóm trẻ mẫu giáo, trẻ học ở các trường trung học phổ thông hoặc thanh niên là đối tượng dễ bị mắc bệnh. Tỷ lệ mắc quai bị ở nam sẽ cao hơn ở nữ. Quai bị thường ít gặp ở những trẻ dưới 2 tuổi mặc dù trẻ chỉ được bảo vệ trong 6 tháng đầu đời với trường hợp mẹ từng mắc bệnh. Sau 2 tuổi, tần suất mắc bệnh cao dần và đạt đỉnh ở độ tuổi từ 10-19 tuổi.

Đây là căn bệnh thường ít gặp ở người lớn nhưng biến chứng quai bị ở người lớn lại nặng nề hơn so với trẻ em.

Biến chứng ở nam giới: Viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn. Biến chứng này chiếm khoảng 20-35% nam giới mắc bệnh sau tuổi dậy thì. Biểu hiện tinh hoàn sưng to, mào tinh căng phù lên. Tình trạng viêm này có thể kéo dài từ 3 đến 7 ngày. Sau đó khoảng 50% trường hợp có teo dần tinh hoàn, giảm tỷ lệ sinh tinh và có thể gây vô sinh ở bệnh nhân quai bị. 

Quai bị có thể gây viêm tinh hoàn nguy cơ dẫn đến vô sinh

Biến chứng ở nữ giới: Viêm buồng trứng, biến chứng này chiếm tỷ lệ 7% ở phụ nữ sau tuổi dậy thì. Biến chứng quai bị ở phụ nữ mang thai, trong 3 tháng đầu thai kỳ, biến chứng này có thể dẫn đến sảy thai hoặc khiến thai nhi dị dạng, ở 3 tháng cuối thai kỳ có thể dẫn đến sinh non hoặc thai chết lưu

Một số biến chứng khác có thể xảy ra ở nam và nữ như:

– Nhồi máu phổi: Khi đó một vùng phổi bị thiếu máu có thể dẫn đến hoại tử mô phổi. Đây là biến chứng có thể xảy ra sau khi bị  viêm tinh hoàn do quai bị, nguyên nhân là do huyết khối từ tĩnh mạch tiền liệt tuyến.

– Viêm tụy: Có tỷ lệ 3% – 7%, là một biểu hiện nặng bệnh. Biểu hiện của viêm tụy thường đau bụng dữ dội, bệnh nhân buồn nôn và có khi huyết áp tụt, ngất xỉu, nguy hiểm nếu không được cấp cứu kịp thời.

– Các tổn thương thần kinh: Viêm não có tỷ lệ 0,5%, bệnh nhân có các hiện tượng như: người bệnh thường xuyên bứt rứt, khó chịu, tính tình thay đổi, thường xuyên đau đầu, mệt mỏi, rối loạn thị giác, tri giác, một số trường hợp đầu bệnh nhân to lên do não úng thuỷ. Tổn thương thần kinh sọ não dẫn đến nhiều hậu quả nguy hiểm về thể chất và tinh thần cho người bệnh, người bệnh có thể bị điếc, viêm tủy sống cắt ngang, giảm thị lực…

Bên cạnh đó người bệnh có thể có một số biến chứng như viêm cơ tim, viêm phổi, viêm thanh phế quản, xuất huyết giảm tiểu cầu, viêm phổi…

Theo Bác sĩ Chuyên khoa I Đỗ Thị Bích Phượng, Khoa Các bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Sản Nhi Quảng Ninh: Điều trị quai bị hiện nay chỉ điều trị triệu chứng. Tức là khi có sốt thì dùng hạ sốt. Ngoài ra có thể tăng cường sức đề kháng như là vitamin C, hoặc là ăn những thức ăn lỏng, nguội và chườm tại vị trí đau.

Người bệnh quai bị nên được chăm sóc kỹ để tránh những biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra. Bệnh nhân cần đến các trung tâm y tế thăm khám để được các bác sĩ chỉ định dùng thuốc, làm một số xét nghiệm cần thiết cũng như theo dõi dấu hiệu sinh tồn.

BSCKI Đỗ Thị Bích Phượng, Khoa Các bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Sản Nhi Quảng Ninh thăm khám cho bệnh nhi

Bên cạnh đó, người bệnh cần được chăm sóc hợp lý như: Nghỉ ngơi, nằm khi có sốt cao, có thể chườm ấm vùng tuyến mang tai bị sưng để giảm đau. Nếu sốt cao có thể lau mát để hạ sốt. Đối với nam giới nên mặc quần lót nâng tinh hoàn, giảm căng và giảm đau nhức cho người bệnh; chăm sóc kỹ răng miệng để tránh bội nhiễm và tăng cảm giác ăn ngon miệng hơn. Bệnh nhân cần được tắm rửa sạch hàng ngày, nên ăn thức ăn lỏng, mềm, tránh những đồ ăn quá nóng, cay, chua nhiều gia vị.

Người thân và những người xung quanh cần tránh tiếp xúc với người bệnh, khi tiếp xúc cần mang khẩu trang, rửa tay sạch sẽ.

Để phòng ngừa bệnh quai bị, Bác sĩ Chuyên khoa I Đỗ Thị Bích Phượng khuyến cáo:Bệnh quai bị đã có vắc xin phòng bệnh nên các bậc phụ huynh cần tiêm vắc xin cho trẻ. Đặc biệt là trẻ trên 12 tháng có lịch tiêm vắc xin sởi – quai bị – rubella, cha mẹ cần chú ý theo dõi lịch tiêm. Vắc xin phòng quai bị có tính miễn dịch bền vững đảm bảo phòng bệnh cho trẻ 100%.

Ngoài ra để phòng quai bị trong cộng đồng cần lưu ý một số biện pháp như:

– Tuyên truyền mở rộng về việc nâng cao ý thức vệ sinh môi trường sống, vệ sinh khu vực nhà ở, nhà trẻ, trường học, khu vực ký túc xá, khu vực đông dân cư… với tiêu chí mở thông thoáng khí ở môi trường ở, khu vực ở và làm việc cần nhiều ánh sáng, sạch sẽ và hạn chế bụi bẩn;

– Mỗi người cần có thói quen rửa thay thường xuyên với xà bông;

– Khu vực nhà ở, công ty, trường học…sạch sẽ, chú trọng vệ sinh cá nhân sạch sẽ, ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm;

– Khi có người nhiễm bệnh cần được cách ly và điều trị tại nhà hoặc cơ sở y tế theo chỉ định của bác sĩ để tránh lây nhiễm cho người xung quanh, khử khuẩn khu vực có người nhiễm bệnh;

– Khi nghi ngờ mắc bệnh cần đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được thăm khám và điều trị, đặc biệt những trường hợp nghi ngờ có biến chứng không được chần chừ mà đến ngay bệnh viện để được xử trí kịp thời.

Mạnh Hùng, Ngọc Phượng – CDC Quảng Ninh